LUẬT ĐỂ NÉ

NÊN NHỚ RÕ

TẤT CẢ CÁC GIAO DỊCH ĐIỆN TỬ ĐỀU KHÔNG CÓ GIÁ TRỊ NẾU BẠN KHÔNG THỪA NHẬN!

TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ PHẢI CHỊU KHI ĐÁNH BẠC ONLINE

  1. Trách nhiệm hành chính:

Căn cứ khoản 2 Điều 28 Nghị định 144/2021/NĐ-CP Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy, chữa cháy; cứu nạn, cứu hộ; phòng, chống bạo lực gia đình.

Người có hành vi đánh bạc online (đánh bạc qua mạng) có thể bị phạt tiền từ 1 triệu đồng đến 2 triệu đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

– Đánh bạc trái phép bằng một trong các hình thức như xóc đĩa, tá lả, tổ tôm, tú lơ khơ, tam cúc, 3 cây, tứ sắc, đỏ đen, cờ thế, binh ấn độ 6 lá, binh xập xám 13 lá, tiến lên 13 lá, đá gà, tài xỉu hoặc các hình thức khác với mục đích được, thua bằng tiền, tài sản, hiện vật;

– Đánh bạc bằng máy, trò chơi điện tử trái phép.

Ngoài các hình phạt chính, theo khoản 6 Điều 28 Nghị định 144/2021/NĐ-CP người có hành vi đánh bạc còn có thể chịu hình phạt bổ sung

  • Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính.
  • Trục xuất người nước ngoài có hành vi vi phạm.

Người đánh bạc online còn phải thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm theo khoản 7 Điều 28 Nghị định 144/2021/NĐ-CP

 Nghị định 15/2020/NĐ-CP ngày 3/2/2020 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, tần số vô tuyến điện, công nghệ thông tin và giao dịch điện tử còn quy định các mức xử phạt đối với các hành vi sau:

– Tại Điều 106 quy định: Người có hành vi “lợi dụng trò chơi điện tử để thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, gây mất trật tự an toàn xã hội và an ninh quốc gia hoặc mua, bán vật phẩm ảo, đơn vị ảo hoặc điểm thưởng” thì bị phạt tiền từ 2 triệu đồng đến 3 triệu đồng.

– Tại Điều 101 quy định: Cá nhân lợi dụng mạng xã hội để thực hiện hành vi “đánh bạc hoặc phục vụ đánh bạc” thì bị xử phạt vi phạm hành chính từ 10 triệu đồng đến 20 triệu đồng.

– Tại Điều 104 quy định: Tổ chức, doanh nghiệp hoặc cá nhân “cung cấp dịch vụ trò chơi điện tử trên mạng để đánh bạc” sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính từ 30 đến 40 triệu đồng; nếu quy đổi vật phẩm ảo, điểm thưởng thành tiền hoặc thẻ thanh toán hoặc các hiện vật có giá trị giao dịch bên ngoài trò chơi điện tử dưới bất kỳ hình thức nào thì sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính từ 170 đến 200 triệu đồng và sẽ bị áp dụng một trong các hình phạt bổ sung như: đình chỉ hoạt động từ 1 đến 3 tháng, tước quyền sử dụng giấy phép, giấy chứng nhận cung cấp dịch vụ trò chơi điện tử trên mạng, tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính… tùy theo tính chất, mức độ vi phạm.

  1. Trách nhiệm hình sự

Người có hành vi đánh bạc online có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc tại Điều 321 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017):

  1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
  2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:
    a) Có tính chất chuyên nghiệp;
    b) Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc trị giá 50.000.000 đồng trở lên;
    c) Sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội;
    d) Tái phạm nguy hiểm.
  3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.

Theo hướng dẫn của TANDTC tại Công văn 196/TANDTC-PC về tình tiết “sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội” là việc sử dụng mạng internet, phương tiện điện tử để đánh bạc trực tuyến. Do đó,  “sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội” là tình tiết định khung tăng nặng của tội đánh bạc, có thể bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm.

Như vậy, hành vi đánh bạc online (đánh bạc qua mạng) có thể bị phạt tù đến 07 năm. Đồng thời có thể bị áp dụng hình thức xử phạt bổ sung là phạt tiền đến 50 triệu đồng.

Ngoài ra, nếu tổ chức đánh bạc qua mạng sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc quy định tại Điều 322 Bộ luật Hình sự 2015 (được sửa đổi bởi khoản 121 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017)

QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA CÔNG DÂN KHI BỊ CÔNG AN MỜI LÊN LÀM VIỆC

Khi công an gửi giấy triệu tập, công dân có quyền được:

Theo khoản 3 Điều 182 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, Bị can phải có mặt theo giấy triệu tập. Trường hợp vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan hoặc có biểu hiện trốn tránh thì Điều tra viên có thể ra quyết định áp giải.

Khi được triệu tập với tư cách bị can, công dân có những quyền được quy định cụ thể tại khoản 2 Điều 60 BLTTHS 2015:

a) Được biết lý do mình bị khởi tố;
b) Được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này;
c) Nhận quyết định khởi tố bị can; quyết định thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can, quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, quyết định phê chuẩn quyết định thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can; quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; bản kết luận điều tra; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án; bản cáo trạng, quyết định truy tố và các quyết định tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này;
d) Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội;
đ) Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
e) Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;
g) Đề nghị giám định, định giá tài sản; đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật;
h) Tự bào chữa, nhờ người bào chữa;
i) Đọc, ghi chép bản sao tài liệu hoặc tài liệu được số hóa liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội hoặc bản sao tài liệu khác liên quan đến việc bào chữa kể từ khi kết thúc điều tra khi có yêu cầu;
k) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

Khi được yêu cầu làm việc với cơ quan điều tra người dân có quyền từ chối làm việc với cơ quan điều tra trong những trường hợp sau:

+ Cơ quan điều tra yêu cầu sự hợp tác của người dân mà không có giấy mời, giấy triệu tập đúng quy định của pháp luật.

+ Nội dung làm việc không được ghi trong giấy mời, giấy triệu tập.

Việc triệu tập, lấy lời khai của bị hại, đương sự được thực hiện theo quy định tại các điều 185, 186 và 187 của Bộ luật tố tụng hình sự.

+ Trường hợp bắt giữ, cưỡng chế trái với quy định phạm luật, xâm phạm quyền con người được quy định trong hiến pháp.

Trong những trường hợp trên, người dân có quyền từ chối làm việc với cơ quan công an. Hành vi từ chối này không vi phạm quy định của pháp luật mà đó là cách bảo vệ quyền con người quyền con người, quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân.

Người dân có thể thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo khi công an triệu tập trái luật

Căn cứ theo Điều 30 Hiến pháp 2013 quy định thì mọi người dân đều có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức nhà nước có thẩm quyền khi cá nhân, cơ quan tổ chức làm sai quy định pháp luật. Khi có khiếu nại, tố cáo, cá nhân, cơ quan tổ chức có thẩm quyền phải tiếp nhận và giải quyết khiếu nại, tố cáo của người dân về hành vi sai pháp luật đó. Đồng thời, theo Điều 32 Bộ luật tố tụng Hình sự 2015 thì cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền khiếu nại, cá nhân có quyền tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hoặc của bất cứ cá nhân nào thuộc các cơ quan đó. Khi bị triệu tập với tư cách là bị can trong vụ án hình sự theo điểm k khoản Điều 60 BLTTHS 2015, Người dân có quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng

Bị can, bị cáo có quyền im lặng không?

Hiện nay, pháp luật Việt Nam mà cụ thể là Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 không có quy định nào đề cập cụ thể đề cập đến khái niệm quyền im lặng nhưng nội dung của quyền im lặng vẫn được thực hiện tại các quy định về quyền của bị can, bị cáo, người bị tạm giữ và người bị bắt khẩn cấp tại điểm e khoản 1 Điều 58; điểm c khoản 2 Điều 59; điểm d khoản 1 điểm d Điều 60 và điểm h khoản 2 Điều 61 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015. Theo đó, các điều khoản này quy định, các bị can, bị cáo, người bị tạm giữ và người bị bắt khẩn cấp có quyền trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội.

Như vậy, trong quá trình tố tụng bị can, bị cáo, người bị tạm giữ và người bị bắt khẩn cấp được pháp luật cho phép có quyền im lặng.